1. Thực trạng:
Theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, môn Tự nhiên và Xã hội (TN-XH) là môn học bắt buộc ở các lớp 1, 2, 3 cấp tiểu học. Môn TN-XH tích hợp những kiến thức về thế giới tự nhiên và xã hội, có vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh (HS) học tập các môn Khoa học, Lịch sử và Địa lý ở các lớp 4, 5. Góp phần đặt nền móng ban đầu cho việc giáo dục về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ở các cấp học trên. Môn học coi trọng việc tổ chức cho HS trải nghiệm thực tế, tạo cho các em cơ hội tìm tòi, khám phá thế giới tự nhiên và xã hội xung quanh; vận dụng kiến thức vào thực tiễn, học cách ứng xử phù hợp với tự nhiên và xã hội.
Năm học 2021-2022 là năm đầu tiên áp dụng Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 đối với lớp 2. Theo đó, có nhiều điểm thay đổi về chương trình, sách giáo khoa… nên đòi hỏi giáo viên (GV) phải đầu tư nghiên cứu “Dạy học môn TN-XH theo định hướng phát triển năng lực cho HS” sao cho hiệu quả nhất, nhằm đạt được mục tiêu chương trình môn học theo TT32/TT-BGDĐT-GDTH.
- Nội dung thực hiện:
Biện pháp 1: Chủ động bồi dưỡng năng lực chuyên môn qua việc tự bồi dưỡng và bồi dưỡng trực tuyến
Để không bỡ ngỡ khi trực tiếp giảng dạy chương trình mới, trong năm học 2020-2021, giáo viên thường xuyên dự giờ các tiết dạy của các giáo viên lớp 1 để tìm hiểu về chương trình, hình thức tổ chức, phương pháp dạy học, cách đánh giá học sinh để từng bước tiếp cận Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, trong đó có môn TN-XH.
Bắt đầu năm học 2021-2022, để giảng dạy chương trình, sách giáo khoa hiệu quả giáo viên chú trọng bồi dưỡng năng lực chuyên môn cũng như kỹ năng sư phạm thông qua các buổi tập huấn, chuyên đề, hội thảo do Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT,
2
trường tổ chức hoặc qua các buổi sinh hoạt chuyên môn để nghiên cứu phương pháp dạy học phát triển năng lực của học sinh phù hợp với từng môn học, trong đó chủ động nghiên cứu kĩ về mục tiêu chương trình, nội dung cụ thể, yêu cầu cần đạt của môn TN-XH 2. Từ đó, GV thực hiện phân phối chương trình, yêu cầu cần đạt ở mỗi giai đoạn, ở từng bài phù hợp theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho HS.
Biện pháp 2: Nghiên cứu và xây dựng Kế hoạch bài dạy theo hướng phát triển năng lực cho HS.
Kế hoạch bài dạy có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học nên kế hoạch bài dạy cần thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, cách vận dụng phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học, sử dụng thiết bị dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của HS. Bên cạnh đó, qua Kế hoạch bài dạy có thể vừa đánh giá được kĩ năng sư phạm của GV vừa thấy rõ quan điểm của GV khi xây dựng kế hoạch bài dạy.
Vì thế, để giúp giáo viên xây dựng Kế hoạch bài dạy theo đúng công văn 2345/BGDĐT-GDTH ngày 07 tháng 6 năm 2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bản thân GV và các thành viên của Tổ Chuyên môn 2 đã mạnh dạn trình bày và cùng nhau chia sẻ các Kế hoạch bài dạy ở các môn học, trong đó có môn TN-XH thông qua buổi Chuyên đề “Giới thiệu Kế hoạch bài dạy theo chương trình GDPT 2018” do nhà trường tổ chức. Qua đó, GV nắm rõ hơn các bước khi xây dựng kế hoạch bài dạy đa dạng theo tính chất bài học, đặc điểm môn học, hoạt động giáo dục và phù hợp đối tượng học sinh; Cách tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực người học như hoạt động mở đầu (khởi động, kết nối) – Hình thành kiến thức mới (trải nghiệm, khám phá, phân tích, hình thành kiến thức)
– Hoạt động luyện tập, thực hành – Hoạt động vận dụng, ứng dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề trong thực tế cuộc sống …
Nghiên cứu kĩ các bước trong quá trình xây dựng Kế hoạch bài dạy, giúp GV cảm thấy dễ dàng, tự tin hơn khi tổ chức các hoạt động theo định hướng phát triển năng lực cho HS vào thực tế giảng dạy.
Biện pháp 3: Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực của học sinh trong môn TN-XH
Để tổ chức các hoạt động dạy học môn TN-XH theo hướng phát triển năng lực người học, giáo viên phải nắm rõ các phương pháp dạy học đặc trưng của môn học như:
- Phương pháp quan sát: Phương pháp này giúp hình thành, phát triển năng lực tìm hiểu tự nhiên và góp phần phát triển năng lực tự học (khi học sinh được quan
sát, tìm tòi kiến thức), năng lực giải quyết vấn đề (khi học sinh từ quan sát phát hiện vấn đề hoặc từ quan sát thu thập thông tin để giải quyết vấn đề).
- Phương pháp thảo luận nhóm: Đây là phương pháp quan trọng giúp hình thành và phát triển năng lực cho học sinh vì hoạt động nhóm giúp tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên, thuận lợi, trong đó học sinh được tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, được chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến của bản thân để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học; các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau; cùng nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung.
- Phương pháp trò chơi học tập: Kích thích hứng thú, nhu cầu tham gia các hoạt động học tập. Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, phát huy tính tự lập, sáng tạo, nhanh trí, tinh thần tập thể. Phát triển trí tuệ cho học sinh. Tập dượt các kĩ năng xã hội để các em có thể hòa nhập vào cuộc sông hằng ngày.
- Phương pháp đóng vai: Học sinh được rèn luyện, thực hành những kĩ năng ứng xử. Gây hứng thú và chú ý cho học sinh. Tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của học sinh. Khích lệ sự thay đổi về thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
- Phương pháp động não: Học sinh thoải mái trong việc tham gia vào các hoạt động mà không quan tâm đến những hạn chế của cá nhân. Kích thích tư duy, phát triển tư duy sáng tạo của học sinh qua việc các em suy nghĩ nêu ra các ý tưởng.
- Phương pháp học qua hoạt động trải nghiệm: Phát triển năng lực tư duy, sáng tạo, giải quyết vấn đề của HS. Phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS, giúp các em có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự việc xảy ra trong hoạt động, cuộc sống hàng ngày.
- Bên cạnh đó, bồi dưỡng phẩm chất cho HS thông qua dạy học môn TN – XH 2 cũng quan trọng vì vậy GV có thể khai thác nội dung các bài học phù hợp. Trong một số bài, các phẩm chất chủ yếu cũng được nhấn mạnh trong mục “ Em cần biết”, gợi ý cho GV sử dụng phương pháp đàm thoại, gợi mở - vấn đáp và thảo luận nhóm để rút ra những giá trị nhân văn và bài học về cách ứng xử phù hợp với bạn bè, thầy cô, các thành viên trong gia đình, cộng đồng và môi trường tự nhiên xung quanh.
- Để hình thành và phát triển các nhóm năng lực chung: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, GV có thể khai thác và tăng cường sử dụng những nhóm phương pháp dạy học khác nhau theo hướng linh hoạt, phù hợp, sáng tạo.
Vì thế, tùy yêu cầu, mục tiêu cụ thể, từng phần và nội dung của bài học mà giáo viên có thể khai thác và lựa chọn sử dụng những phương pháp dạy học phù hợp. Sau mỗi tiết dạy, giáo viên ghi nhận lại những điểm cần rút kinh nghiệm khi tổ chức thực hiện, vận dụng các phương pháp để hoàn thiện phương án dạy học cho bài học.
Biện pháp 4: Khai thác hiệu quả học liệu sách giáo khoa, sách giáo viên, thiết kế bài giảng, vở bài tập và các nguồn tài nguyên số sẵn có
- Sách giáo khoa TN-XH 2 được biên soạn theo định hướng phát triển năng lực HS. Chính vì vậy, GV cần nghiên cứu kĩ từng hoạt động trong mỗi bài học, khai thác triệt để những ưu điểm của sách để dẫn dắt, khơi gợi sự tò mò, kích thích HS tư duy, khám phá.
- Khi tham gia và thực hiện các hoat động học tập trong Vở bài tập, các em có thể sáng tạo, làm ra được những sản phẩm học tập của riêng mình và tự đánh giá được quá trình học tập của bản thân. Vì vậy, GV có thể sử dụng Vở bài tập như một đồ dùng dạy học để hỗ trợ quá trình giảng dạy trên lớp. Việc sử dụng Vở bài tập có thể được thực hiện trong tiết dạy nhằm phân hóa học sinh hoặc sử dụng như phần chuẩn bị bài ở nhà, dùng để kiểm tra đánh giá.
- Khi xây dựng Kế hoạch bài dạy, dựa vào Sách giáo viên và Sách thiết kế bài giảng, GV có thể dễ dàng xây dựng kế hoạch bài dạy theo sát nội dung bài học trong sách giáo khoa TN-XH 2 cũng như xác định được mục tiêu dạy học cụ thể về phẩm chất chủ yếu, năng lực chung, năng lực đặc thù của mỗi bài học.
- Với việc dạy học trực tuyến hoặc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy như hiện nay thì nguồn tài nguyên số rất hữu ích đối với GV cũng như HS. GV có thể dễ dàng lấy được các hình ảnh minh họa đưa vào bài dạy hoặc giúp HS tự tìm hiểu trước bài học và tự học ở mọi lúc mọi nơi.
Biện pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
- Việc ứng dụng CNTT vào dạy – học đã và đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ ở các trường học, cấp học. Đặc biệt càng phù hợp với tình hình thực tế hiện nay khi GV và HS đang tham gia dạy và học trực tuyến trong giai đoạn phòng chống dịch.
- Nhờ ứng dụng CNTT vào giảng dạy, giáo viên chủ động hơn trong kế hoạch bài giảng của mình, dễ dàng tìm kiếm các tài nguyên phục vụ bài giảng, tạo mạch liên kết giữa các đơn vị kiến thức tự nhiên, hợp lý hơn.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đã giúp HS được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn. Tiếp xúc nhiều với công nghệ thông tin trong lớp học còn mang đến cho các em những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp HS đa dạng và sáng tạo các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cho bài học của các em. Các em thích nghi tốt với các hình thức tự học như học online, học qua cầu truyền hình.
- Hiệu quả mang lại:
Đề tài áp dụng cho đối tượng học sinh lớp 2/1 tại trường Tiểu học Nguyễn Khuyến trong thời gian học tập từ tuần 1 đến tuần 9, đạt được kết quả như sau:
- 100% học sinh yêu thích các giờ học của môn Tự nhiên xã hội. Tích cực tham gia các hoạt động học tập.
- 100% học sinh hình thành và phát triển được năng lực nhận thức khoa học. Các em nhận biết được ở mức độ đơn giản một số mối quan hệ thường gặp trong môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh như về sức khoẻ và sự an toàn trong cuộc sống, mối quan hệ của học sinh với gia đình, nhà trường.
- 82,9% học sinh hình thành và phát triển được năng lực tìm hiểu môi trường tự nhiên xã hội. Các em biết quan sát, thực hành đơn giản để tìm hiểu về sự vật, hiện tượng trong môi trường tự nhiên và xã hội.
- 68,5% học sinh hình thành và phát triển được năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Các em biết giải quyết, ứng xử phù hợp trong một số tình huống đơn giản.
- Kết luận:
Dù biết rằng khi tổ chức “Dạy học môn TN-XH theo định hướng phát triển năng lực cho HS” còn gặp một số khó khăn nhất là trong giai đoạn học sinh học trực tuyến nhưng bằng kinh nghiệm, lòng nhiệt huyết, cùng với việc không ngừng trao dồi học hỏi và với phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”, bản thân giáo viên sẽ luôn nổ lực từng ngày tiếp tục thực hiện hiệu quả trong năm học 2023 - 2024